Chunking – Bảo bối khi cần truyền tải nhiều thông tin hiệu quả

Bài viết đặc biệt hữu ích cho các bạn chuẩn bị phỏng vấn học bổng du học, phỏng vấn xin việc, thuyết trình, giảng dạy, và thiết kế nội dung học tập.

Sau nhiều năm hỗ trợ làm mock interview giúp các bạn ứng viên apply học bổng Fulbright, Trang nhận ra một vấn đề chung các bạn thường gặp phải: cố gắng giới thiệu nhiều thông tin về bản thân nhưng chưa biết cách tạo được điểm nhấn và dấu ấn đối với người nghe.

Vấn đề khó khăn khi phải truyền tải nhiều thông tin cũng rất phổ biến khi chúng ta thiết kế nội dung học tập, thuyết trình, hay giảng dạy.

Một trong những phương pháp rất hữu ích để giải quyết vấn đề này chính là phương pháp “chunking”!

“Chunking” là gì?

Trí nhớ ngắn hạn của chúng ta chỉ có thể xử lý một lượng thông tin có hạn trong một thời gian ngắn (5 – 9 mẩu thông tin theo Miller, 1956). Vậy nên khi chúng ta phát biểu, trả lời phỏng vấn, thuyết trình, hoặc thiết kế nội dung học tập… mà đưa quá nhiều những mảnh thông tin rời rạc, nội dung chúng ta chia sẻ sẽ chẳng đọng lại được nhiều trong đầu người tiếp nhận.

Tuy nhiên, một mẹo rất hiệu quả để chúng ta xử lý điểm yếu này của trí nhớ ngắn hạn là sử dụng kỹ thuật “chunking”.

Theo Miller (1956), chunking là quá trình kết nối những mảnh thông tin nhỏ thành một khối ý nghĩa, dễ dàng lưu trữ được trong trí nhớ của chúng ta.

Khi những thông tin rời rạc được chuyển thành “chunks” (các khối thông tin), thay vì xử lý rất nhiều thông tin riêng rẽ, trí nhớ của chúng ta chỉ cần xử lý số lượng “chunks” nhỏ hơn rất nhiều.

Chunk (Tạo khối thông tin) như thế nào?

Có 3 phương pháp chunking phổ biến Trang thường sử dụng bao gồm: “Chunk” bằng câu chuyện, bằng hình ảnh, và bằng cụm từ viết tắt. Hay Trang hay gọi tắt là SPA (giúp người nghe dễ dàng tiếp thu thông tin như trả nghiệm đi spa)

Continue reading Chunking – Bảo bối khi cần truyền tải nhiều thông tin hiệu quả

Thiết kế trải nghiệm học: Tạo sự chú ý bằng việc khơi gợi sự tò mò

Nếu phải chọn 1 nguyên tắc về làm nội dung cũng như thiết kế trải nghiệm học mà Trang cực kỳ tâm đắc thì đó là: “Information on Demand & Just-in-time” (Nguyên tắc Thông tin được cung cấp theo nhu cầu và đúng thời điểm) của James Paul Gee. Nói một cách vui vui là chúng ta cần khiến người xem / người học phải tò mò, quyết tâm có được câu trả lời.

Nguyên tắc này không chỉ giá trị trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, mà hữu ích trong tất cả các mảng liên quan đến việc truyền tải thông tin, sáng tạo nội dung, giao tiếp, thuyết trình.

The principle is quite similar to pouring water into a glass
Photo by Pixabay on Pexels.com

Hình dung nguyên tắc này giống việc chúng ta đổ nước vào một cái cốc. Chúng ta chỉ có thể đổ nước vào nếu cái cốc đó không có nắp đậy và khi cốc chưa bị đổ đầy.

Tương tự với người tiếp nhận thông tin, nếu họ sẵn sàng mở nắp, làm vơi bớt nước trong cốc, thì chúng ta mới có cơ hội rót nước vào (cung cấp thông tin). Còn một khi cái cốc đã bị đậy lại, thì có cố đến đâu, nước sẽ chỉ tràn ra ngoài (thông tin cung cấp sẽ không hiệu quả).

Như vậy, khi làm nội dung hay thiết kế trải nghiệm học, muốn được chú ý, chúng ta phải gợi mở được nhu cầu cần biết thông tin ở người tiếp nhận (thuật ngữ trong tiếng Anh là “Creating the need to know”).

Vậy chúng ta cần gợi mở nhu cầu như thế nào? Dưới đây là một vài ví dụ về cách áp dụng nguyên tắc này.

1. Ứng dụng khi làm nội dung học tập

Đừng chỉ cung cấp thông tin một cách khô khan. Hãy đặt thông tin vào những bối cảnh cụ thể. Bối cảnh càng gần gũi, gắn với nhu cầu, vấn đề thực tế người học phải giải quyết, thông tin càng dễ có cơ hội được tiếp nhận.

Continue reading Thiết kế trải nghiệm học: Tạo sự chú ý bằng việc khơi gợi sự tò mò

5 bí kíp nói trước camera cho video học trực tuyến

Bạn thấy rất hưng phấn mỗi khi thuyết trình, chia sẻ trực tiếp, nhưng ngay lập tức bị đơ khi đứng trước máy quay ghi hình cho video?

Yeah. Trang cũng từng rơi vào hoàn cảnh này. Rõ ràng cái camera vô cảm, lạnh lùng kia khó cho chúng ta cảm hứng để chia sẻ. Chưa kể, nếu bạn được vây quanh bởi cả ekip quay, dựng, chỉ tập trung săm soi, bắt lỗi của bạn, bạn khó có thể được thoải mái, hồn nhiên là phiên bản xịn nhất của mình.

Ngày trước kỹ năng nói trước máy quay chỉ đòi hỏi ở các bạn làm mảng truyền hình, giải trí, thì giờ đây khi việc học đa phương tiện trở nên cực kỳ phổ biến, các giảng viên, trainer, learning designer… cũng rất nên trang bị cho mình kỹ năng này.

Trong bài viết này, Trang sẽ chia sẻ một số gợi ý để chúng ta chinh phục được cái camera vô cảm kia. Nhờ đó, chúng ta có thể xuất hiện trong video đào tạo không phải như một con robot mà là một con người sống động, thu hút sự chú ý của người xem.

Hình ảnh Trang và bạn Dumb trong một video dạy tiếng Anh
Hình ảnh Trang và bạn Dumb trong một video dạy tiếng Anh

Bí kíp 1: Nắm chắc nội dung mình muốn chia sẻ

Mẹo này quá hiển nhiên rồi đúng không? Nhưng Trang vẫn cần nhấn mạnh tầm quan trọng của nó. Đơn giản vì khi ghi hình, chúng ta sẽ phải xử lý một lúc tất cả các yếu tố sau:

  • Ghi nhớ nội dung
  • Nét mặt sao cho sống động, ngôn ngữ cơ thể tự nhiên, thoải mái
  • Giọng nói sao cho tự tin, rõ ràng, trơn tru, và có điểm nhấn
  • Bị săm soi bởi cả ekip quay và dựng

Càng thành thục được bất kỳ yếu tố nào kể trên, chúng ta càng bớt được áp lực cho tâm trí phải xử lý quá nhiều việc một lúc. Trong đó, việc nắm chắc nội dung mình muốn chia sẻ sẽ giúp chúng ta đỡ đi rất nhiều nỗ lực phải ghi nhớ thông tin.

Continue reading 5 bí kíp nói trước camera cho video học trực tuyến

XU HƯỚNG EDTECH NĂM 2022 & VAI TRÒ CỦA LEARNING DESIGNER

Tác giả: Trang Trần – Learning Designer
Thạc sỹ “Thiết kế trải nghiệm học trên nền tảng số”, Đại học New York, Hoa Kỳ


Edtech là một trong những ngành liên tục có nhiều thay đổi đột phá trong những năm gần đây. Chúng ta cần nắm bắt các xu hướng nhưng đồng thời cũng cần biết những vấn đề còn tồn tại, từ đó mà tìm ra những giải pháp ý nghĩa trong giáo dục và đào tạo.

Với bài viết này, Trang đã tổng hợp, tham khảo từ nhiều nguồn (các đánh giá của Google Scholar cho các edtech journals uy tín, các nghiên cứu của Holon IQ, Economist Impact, Edsurge, Edweek, và các học giả, chuyên gia trong ngành…), hi vọng giúp các công ty edtech, các trường học, learning designers, các thầy cô giáo, những người làm đào tạo… có thêm góc nhìn mới để nắm bắt các trends và các vấn đề gặp phải, từ đó cùng nhau tìm hướng giải quyết phù hợp.

I. Trải nghiệm học được chú trọng hơn việc cung cấp thông tin

1. Personalized Learning & Adaptive Learning

Theo nghiên cứu của The Economist Group (2021), đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh xu thế Personalized Learning (cá nhân hóa trải nghiệm học). Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một định hướng rõ ràng cần personalized learning như thế nào. Nghiên cứu này cũng chỉ ra một thực tế là khi nhắc đến personalized learning, chúng ta mới chỉ tập trung nhiều vào khía cạnh công nghệ, trong khi để thực hiện được, cần vai trò rất lớn của những người làm giáo dục. 

Personalized Learning & Adaptive Learning – Minh họa bởi Minh Hương cho learningdesigner.blog

Gần với khái niệm về Personalized Learning là Adaptive Learning (Học tập thích ứng). Trong nghiên cứu của Edsurge (2016), các công cụ adaptive learning là những công nghệ giáo dục có thể thích ứng theo những tương tác của người học bằng việc điều chỉnh trải nghiệm học để phù hợp với nhu cầu của từng cá nhân. Những công cụ đó thu thập các thông tin cụ thể của từng người học bằng việc theo sát cách họ trả lời câu hỏi và các hành vi của họ trên hệ thống để cung cấp những phản hồi kịp thời phù hợp. 

Nghiên cứu của Edsurge đưa ra 3 dạng adaptive learning

  • Adaptive content (điều chỉnh nội dung học), ví dụ: công cụ Lexa Learning
  • Adaptive assessments (điều chỉnh cách đánh giá), ví dụ: công cụ i-Ready Diagnostic
  • Adaptive sequences (điều chỉnh thứ tự trải nghiệm học), ví dụ: công cụ Knewton
  • Hoặc kết hợp các dạng adaptive learning kể trên, ví dụ: công cụ Knowre (content & sequence)

Cũng như nghiên cứu của The Economist Group (2021), Edsurge (2016) nhấn mạnh rằng “adaptive learning” chỉ tạo được giá trị thực sự cho người học khi những người làm giáo dục tham gia vào quá trình thiết kế những trải nghiệm đó. 

Continue reading XU HƯỚNG EDTECH NĂM 2022 & VAI TRÒ CỦA LEARNING DESIGNER