Nếu bạn quan tâm đến cách tạo sự hào hứng cho người học bằng việc lồng ghép các yếu tố giải trí vào giải pháp học tập, chào mừng bạn đến với bài blog của Trang về Edutainment.
Edutainment là các giải pháp học tập dùng hình thức giải trí để tạo sự hào hứng cho người xem. Nội dung học tập được lồng ghép vào khéo léo để trải nghiệm học thú vị mà vẫn hiệu quả.
Trong bài blog này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu: (I) Giá trị của Edutainment, (II) Cách cân bằng giữa yếu tố giáo dục và giải trí, và (III) Làm thế nào để giải trí mà vẫn đọng lại được kiến thức.
I. Giá trị của Edutainment
Năm 2014, Trang đang điều hành một doanh nghiệp riêng. Mọi người chắc cũng biết khi khởi nghiệp, có ti tỉ thứ phải học. Nhưng để duy trì được động lực để chăm chỉ học hành thực sự không dễ chút nào.
May mắn sao Trang được biết đến TV Series “Silicon Valley“, series hài về hành trình start-up của anh chàng lập trình viên Richard. Lúc đầu Trang định xem với mục đích giải trí thôi, nhưng không ngờ sau đó Trang học được khá nhiều về các vấn đề trong quá trình khởi nghiệp. Từ đó mà có động lực tìm hiểu thêm những chủ đề mình quan tâm.
Nhờ sự việc này Trang nhận ra sức mạnh của việc kết hợp giữa Giải trí và Giáo dục.
Nếu biết lồng ghép một cách khéo léo giữa các yếu tố Giáo dục và Giải trí, chúng ta sẽ tạo được động lực học tập tốt hơn đồng thời giúp nội dung học dễ dàng được ghi nhớ hơn khi được gắn vào những bối cảnh thú vị.
II. Cách cân bằng giữa yếu tố Giáo dục và Giải trí
Trong quá trình thiết kế các giải pháp học tập ứng dụng Edutainment, learning designer (người thiết kế trải nghiệm học) cần tìm được điểm cân bằng hợp lý giữa các yếu tố Giáo dục và Giải trí.
Quá ít yếu tố giải trí dễ khiến trải nghiệm học bị nhàm chán, nhưng nếu quá nhiều những phần giải trí không liên quan lại dễ khiến người học bị sao nhãng khỏi nội dung học.
Bài viết đặc biệt hữu ích cho các bạn chuẩn bị phỏng vấn học bổng du học, phỏng vấn xin việc, thuyết trình, giảng dạy, và thiết kế nội dung học tập.
Sau nhiều năm hỗ trợ làm mock interview giúp các bạn ứng viên apply học bổng Fulbright, Trang nhận ra một vấn đề chung các bạn thường gặp phải: cố gắng giới thiệu nhiều thông tin về bản thân nhưng chưa biết cách tạo được điểm nhấn và dấu ấn đối với người nghe.
Vấn đề khó khăn khi phải truyền tải nhiều thông tin cũng rất phổ biến khi chúng ta thiết kế nội dung học tập, thuyết trình, hay giảng dạy.
Một trong những phương pháp rất hữu ích để giải quyết vấn đề này chính là phương pháp “chunking”!
“Chunking” là gì?
Trí nhớ ngắn hạn của chúng ta chỉ có thể xử lý một lượng thông tin có hạn trong một thời gian ngắn (5 – 9 mẩu thông tin theo Miller, 1956). Vậy nên khi chúng ta phát biểu, trả lời phỏng vấn, thuyết trình, hoặc thiết kế nội dung học tập… mà đưa quá nhiều những mảnh thông tin rời rạc, nội dung chúng ta chia sẻ sẽ chẳng đọng lại được nhiều trong đầu người tiếp nhận.
Tuy nhiên, một mẹo rất hiệu quả để chúng ta xử lý điểm yếu này của trí nhớ ngắn hạn là sử dụng kỹ thuật “chunking”.
Theo Miller (1956), chunking là quá trình kết nối những mảnh thông tin nhỏ thành một khối ý nghĩa, dễ dàng lưu trữ được trong trí nhớ của chúng ta.
Khi những thông tin rời rạc được chuyển thành “chunks” (các khối thông tin), thay vì xử lý rất nhiều thông tin riêng rẽ, trí nhớ của chúng ta chỉ cần xử lý số lượng “chunks” nhỏ hơn rất nhiều.
Chunk (Tạo khối thông tin) như thế nào?
Có 3 phương pháp chunking phổ biến Trang thường sử dụng bao gồm: “Chunk” bằng câu chuyện, bằng hình ảnh, và bằng cụm từ viết tắt. Hay Trang hay gọi tắt là SPA (giúp người nghe dễ dàng tiếp thu thông tin như trả nghiệm đi spa)
Nếu phải chọn 1 nguyên tắc về làm nội dung cũng như thiết kế trải nghiệm học mà Trang cực kỳ tâm đắc thì đó là: “Information on Demand & Just-in-time”(Nguyên tắc Thông tin được cung cấp theo nhu cầu và đúng thời điểm) của James Paul Gee. Nói một cách vui vui là chúng ta cần khiến người xem / người học phải tò mò, quyết tâm có được câu trả lời.
Nguyên tắc này không chỉ giá trị trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, mà hữu ích trong tất cả các mảng liên quan đến việc truyền tải thông tin, sáng tạo nội dung, giao tiếp, thuyết trình.
Hình dung nguyên tắc này giống việc chúng ta đổ nước vào một cái cốc. Chúng ta chỉ có thể đổ nước vào nếu cái cốc đó không có nắp đậy và khi cốc chưa bị đổ đầy.
Tương tự với người tiếp nhận thông tin, nếu họ sẵn sàng mở nắp, làm vơi bớt nước trong cốc, thì chúng ta mới có cơ hội rót nước vào (cung cấp thông tin). Còn một khi cái cốc đã bị đậy lại, thì có cố đến đâu, nước sẽ chỉ tràn ra ngoài (thông tin cung cấp sẽ không hiệu quả).
Như vậy, khi làm nội dung hay thiết kế trải nghiệm học, muốn được chú ý, chúng ta phải gợi mở được nhu cầu cần biết thông tin ở người tiếp nhận (thuật ngữ trong tiếng Anh là “Creating the need to know”).
Vậy chúng ta cần gợi mở nhu cầu như thế nào? Dưới đây là một vài ví dụ về cách áp dụng nguyên tắc này.
1. Ứng dụng khi làm nội dung học tập
Đừng chỉ cung cấp thông tin một cách khô khan. Hãy đặt thông tin vào những bối cảnh cụ thể. Bối cảnh càng gần gũi, gắn với nhu cầu, vấn đề thực tế người học phải giải quyết, thông tin càng dễ có cơ hội được tiếp nhận.
Nếu phải chọn một phương pháp giúp phát triển bản thân đúc rút từ hơn 10 năm đi làm và hơn 6 năm ngụp lặn trong thế giới khoa học về việc học và learning design (thiết kế trải nghiệm học), Trang sẽ chọn Deliberate Practice (Tạm dịch: Luyện tập có chủ đích).
Chắc mọi người không còn xa lạ với quan điểm về việc cần 10.000 giờ luyện tập để trở thành chuyên gia được nhắc đến trong cuốn sách nổi tiếng “Những kẻ xuất chúng” của Malcolm Gladwell. Tuy nhiên, nếu chỉ luyện tập thường xuyên mà không có chủ đích, chúng ta chỉ có thể thông thạo những kỹ năng mình đã có.
Theo Ericsson, Prietula, và Cokely (2007), 10.000 giờ đó sẽ hiệu quả hơn rất nhiều, nếu chúng ta tập trung làm được song song việc phát triển những kỹ năng chúng ta đã có đồng thời mở rộng dần dần những kỹ năng thử thách hơn. Hay nói cách khác, đó là khi chúng ta biết vận dụng phương pháp Deliberate Practice (Luyện tập có chủ đích).
Khi đã lái xe thông thạo, chúng ta có thể thử ra biển để tập lái bằng một tay (Ảnh chỉ mang tính minh họa, không khuyến khích độc giả làm theo ^_^). Ảnh bởi Nick Wehrli trên Pexels.com
I. Deliberate Practice là gì?
Hãy tưởng tượng những kỹ năng chúng ta có trong một lĩnh vực giống như một menu của quán ăn. Thời gian đầu menu đó khá cơ bản, rất ít món, và cần được mở rộng. Tuy nhiên, nếu không mở rộng một cách khôn ngoan, chúng ta có thể sẽ thêm nhiều món mới rất khó nuốt. Việc mở rộng kỹ năng phải có chủ đích, có chiến lược, yêu cầu nhiều nỗ lực bền bỉ cùng sự tập trung cao độ vào những phần quan trọng cần cải thiện.
Deliberate Practice là việc thực hành có chủ đích, yêu cầu nhiều nỗ lực được duy trì bền vững cùng sự tập trung cao độ vào những bài thực hành cụ thể để chinh phục những việc mình chưa làm tốt hoặc thậm chí chưa làm được.
Bạn thấy rất hưng phấn mỗi khi thuyết trình, chia sẻ trực tiếp, nhưng ngay lập tức bị đơ khi đứng trước máy quay ghi hình cho video?
Yeah. Trang cũng từng rơi vào hoàn cảnh này. Rõ ràng cái camera vô cảm, lạnh lùng kia khó cho chúng ta cảm hứng để chia sẻ. Chưa kể, nếu bạn được vây quanh bởi cả ekip quay, dựng, chỉ tập trung săm soi, bắt lỗi của bạn, bạn khó có thể được thoải mái, hồn nhiên là phiên bản xịn nhất của mình.
Ngày trước kỹ năng nói trước máy quay chỉ đòi hỏi ở các bạn làm mảng truyền hình, giải trí, thì giờ đây khi việc học đa phương tiện trở nên cực kỳ phổ biến, các giảng viên, trainer, learning designer… cũng rất nên trang bị cho mình kỹ năng này.
Trong bài viết này, Trang sẽ chia sẻ một số gợi ý để chúng ta chinh phục được cái camera vô cảm kia. Nhờ đó, chúng ta có thể xuất hiện trong video đào tạo không phải như một con robot mà là một con người sống động, thu hút sự chú ý của người xem.
Hình ảnh Trang và bạn Dumb trong một video dạy tiếng Anh
Bí kíp 1: Nắm chắc nội dung mình muốn chia sẻ
Mẹo này quá hiển nhiên rồi đúng không? Nhưng Trang vẫn cần nhấn mạnh tầm quan trọng của nó. Đơn giản vì khi ghi hình, chúng ta sẽ phải xử lý một lúc tất cả các yếu tố sau:
Ghi nhớ nội dung
Nét mặt sao cho sống động, ngôn ngữ cơ thể tự nhiên, thoải mái
Giọng nói sao cho tự tin, rõ ràng, trơn tru, và có điểm nhấn
Bị săm soi bởi cả ekip quay và dựng
Càng thành thục được bất kỳ yếu tố nào kể trên, chúng ta càng bớt được áp lực cho tâm trí phải xử lý quá nhiều việc một lúc. Trong đó, việc nắm chắc nội dung mình muốn chia sẻ sẽ giúp chúng ta đỡ đi rất nhiều nỗ lực phải ghi nhớ thông tin.
Hơn 6 năm trước, Trang được học về 4 cấp độ lắng nghe của Otto Scharmer từ khóa Art of Hosting. Cho đến giờ, đó vẫn là một trong những bảo bối lớn nhất Trang có được, mang lại nhiều giá trị cho Trang trong cả sự nghiệp và cuộc sống.
Trước khi có thể sáng tạo, cải tiến, giải quyết vấn đề, hay xây dựng mối quan hệ ý nghĩa… chúng ta đều cần biết cách lắng nghe. Lắng nghe hời hợt sẽ chỉ cho chúng ta những thông tin bề nổi, khẳng định lại những gì chúng ta đã tin, đã biết trước đó. Chỉ khi biết dành tâm trí, sự tập trung, và sẵn sàng để sang một bên những quan điểm, niềm tin có sẵn của bản thân, chúng ta mới có thể lắng nghe được sâu sắc. Và đó là điểm khởi đầu của sự thấu hiểu, của những kết nối ở tầng sâu, của những ý tưởng đột phá khi ta có thêm góc nhìn mới, ở một lăng kính mới.
I. Bốn cấp độ lắng nghe (Otto Scharmer)
Chúng ta có thể hình dung bốn cấp độ của lắng nghe của Otto Scharmer như cách chúng ta di chuyển trong căn phòng của mình:
Cấp độ 1 – Downloading: Ta lắng nghe nhưng vẫn tự hạn chế mình trong bức tường đóng kín bởi những định kiến, nhận thức, trải nghiệm trong quá khứ. Ta nghe chỉ để khẳng định những gì mình đã tin, đã biết.
Cấp độ 2 – Factual: Ta quyết định mở cửa để đón luồng gió mới. Tức là tạm gác những định kiến, trải nghiệm, kiến thức, niềm tin cũ sang một bên để đầu óc cởi mở đón nhận những góc nhìn mới, nhận thức, thông tin mới.
Cấp độ 3 – Empathic Listening: Ta quyết định bước ra khỏi căn phòng của mình để đi vào thế giới của người khác, đứng ở góc nhìn của người khác để thấu hiểu, cảm nhận không chỉ thông tin mới mà cả những cảm xúc, cảm giác, tình cảm…
Cấp độ 4 – Generative Listening: Đó là sự lắng nghe vượt qua cấp độ kết nối ở cá nhân cũng như góc nhìn giới hạn của từng cá nhân, mà tập trung kết nối với những tiềm năng, cơ hội, khả năng xảy đến trong tương lai.
Vậy trong learning design (Thiết kế trải nghiệm học), những cấp độ lắng nghe này có ý nghĩa như thế nào?
Bạn đã bao giờ trầm trồ khi xem những video đào tạo cuốn hút, hấp dẫn đến nỗi có thể nằm ôm máy tính học nhiều giờ mà không chán?
Trang đã từng có được cảm giác hưng phấn đó. Nhưng cũng không ít lần thấy thất vọng khi phải xem những video thiết kế không hoàn toàn tối ưu cho trải nghiệm học.
Vậy điều gì làm nên sự khác biệt đó? Khi nào thì chúng ta nên dùng video?
Trong bài blog này, hãy cùng Trang tìm hiểu những mục đích chính khi sử dụng video, các dạng video phổ biến, cũng như một vài gợi ý để chúng ta có thể thiết kế nội dung học định dạng video giúp quá trình học hiệu quả, hấp dẫn hơn.
I. Những mục đích chính khi sử dụng video
Mục đích 1: Giải thích những khái niệm phức tạp
“Độ phức tạp của thông tin phải phù hợp với khả năng truyền tải của phương tiện sử dụng.”
Hilbert (2015)
Bạn đang cảm thấy bất lực khi dùng ngôn từ để giải thích về một khái niệm hay một quy trình nào đó? Vậy bạn sẽ cần sử dụng một phương tiện có thể truyền tải được nhiều yếu tố đa dạng hơn (khái niệm trong tiếng Anh là media richness).
Video là định dạng nội dung học tập có khả năng truyền tải nội dung phong phú với hình ảnh, âm thanh, cũng như các hiệu ứng khác nhau. Các định dạng học tập sử dụng hình ảnh như video sẽ rất phù hợp với những nội dung học tập phức tạp này.
Ví dụ, dưới đây là một video giới thiệu về quy trình mã hóa kép trong não bộ mà Trang từng làm. Bạn có thể tưởng tượng nếu không có những hình ảnh trực quan, tương tác với nhau như trong video thì người xem sẽ gặp khó khăn thế nào khi muốn hiểu về khái niệm này!
Những video được sử dụng với mục đích này có tên gọi là explainer video (video giải thích). Các video này chủ yếu được làm dựa trên các định dạng như hoạt họa 2D, 3D, bảng trắng (whiteboard animation), quay cảnh trực tiếp (live action), hay video giảng dạy có người đứng nói (instructor-led training).
“Một tập đoàn toàn cầu như Amazon làm thế nào để vận hành hiệu quả ở quy mô lớn?”
Một câu hỏi quá khó cho một người mới vào hơn hai tháng như Trang. Nhưng với trải nghiệm cá nhân trong thời gian qua, có hai điều khiến Trang thực sự ấn tượng: leadership principles (các nguyên tắc lãnh đạo) và mechanisms (các quy trình hoàn chỉnh để giải quyết các vấn đề lặp lại).
Vậy cụ thể principles và mechanisms là gì? Nó có ứng dụng thế nào trong công việc nói chung và quy trình learning design nói riêng?
1. Leadership Principles
Việc có hệ giá trị cốt lõi và các nguyên tắc hoạt động không phải điều mới mẻ trong doanh nghiệp. Nhưng từ trải nghiệm cá nhân, Trang chưa thấy nơi nào mà các nguyên tắc đó đi sâu vào từng quyết định hàng ngày như ở Amazon.
Ví dụ:
Bản thân Trang thường đặt ra nhiều yêu cầu cao khi làm các nội dung học tập. Thời gian đầu, do agency làm việc cùng chưa quen với những yêu cầu đó, tiến độ công việc bị chậm lại. Trang thấy hơi ngại nên có trao đổi thẳng với team của Trang ở Amazon về việc này. Và đây là câu trả lời Trang nhận được:
“Một trong các nguyên tắc của Amazon là “hoạt động dựa trên những tiêu chuẩn cao nhất”, vì vậy Trang cứ thoải mái khó tính 😀”
“Một nguyên tắc khác là “đảm bảo mang lại kết quả”, vì vậy cần kết hợp hướng dẫn, đào tạo cho agency. Khi họ đã quen với những yêu cầu, sẽ không còn bị chậm tiến độ nữa”.
Những nguyên tắc lãnh đạo của Amazon như kim chỉ nam cho các công việc hàng ngày. Nhờ đó, những ý tưởng được thảo luận hiệu quả hơn; những quyết định được đưa ra nhanh hơn. Bản thân mỗi nhân sự khi đi làm cũng cảm thấy rõ ràng về những kỳ vọng đặt ra trong công việc của mình.
Một trong những nguyên tắc Trang đặc biệt thích là “Earn Trust” (Xây dựng lòng tin). Nguyên tắc này đề cao việc lắng nghe, đóng góp thẳng thắn, đối xử với những người khác một cách tôn trọng, và sẵn sàng chia sẻ những khuyết điểm của bản thân và đội nhóm của mình. Nhờ nguyên tắc này mà Trang khá thoải mái được là chính mình khi làm việc. Trang sẵn sàng nhận lỗi, chủ động đón nhận feedback, và tập trung năng lượng cho việc phát triển bản thân.
Ngoài các nguyên tắc lãnh đạo thì Mechanisms (các quy trình hoàn chỉnh để giải quyết các vấn đề lặp lại) là mảng mang lại cho Trang nhiều tò mò, hứng thú khi làm việc ở Amazon.
Trang rất ấn tượng với câu nói của nhà sáng lập Jeff Bezos:
“Good intentions never work, you need good mechanisms to make anything happen.”
Jeff Bezos
Câu này có ý nghĩa rằng: Những ý định tốt của mọi người thường sẽ không bền vững và không có tính hệ thống. Chúng ta cần những quy trình và công cụ có thể tự động hóa và mở rộng ở quy mô lớn.
Mechanism là một quy trình hoàn chỉnh khi chúng ta tạo ra một công cụ, thúc đẩy việc áp dụng công cụ đó, và liên tục đánh giá kết quả để có những sửa đổi phù hợp, nhằm giải quyết các vấn đề lặp lại trong công việc. Nó là một vòng lặp để tự củng cố và hoàn thiện bản thân khi vận hành.
Quy trình hoàn chỉnh của một mechanism. Nguồn ảnh: Link
Ví dụ, một trong những lý do khiến trải nghiệm mua sắm trên Amazon rất tuyệt vời là nhờ vào mechanism có tên CS Andon Cord. Những người làm việc các trung tâm hoàn thiện đơn hàng nếu phát hiện ra lỗi của bất kỳ sản phẩm nào đều có thể sử dụng công cụ này để thông báo. Ngay lập tức, sản phẩm đó sẽ bị gỡ bỏ khỏi trang web cho đến khi các vấn đề về sản phẩm được giải quyết. Như vậy, mechanism này giúp khách hàng giảm rủi ro mua phải những sản phẩm lỗi, xây dựng lòng tin của khách hàng khi mua sắm trên Amazon.
Giải thích cụ thể hơn về mechanism và các bước tao ra mechanism, các bạn có thể đọc thêm tại bài viết trên trang web củaAWS.
3. Ứng dụng trong Learning design
Vậy trong lĩnh vực learning design, principles và mechanisms có ý nghĩa như thế nào?
Chạy nhanh lên kẻo bị tụt lại? Bạn nghe câu này quen không? Khi thế giới thay đổi chóng mặt, chúng ta như bị một áp lực vô hình liên tục phải học nhanh, phải thích ứng nhanh, mang lại kết quả nhanh… Nhưng với việc phát triển sự nghiệp, có phải lúc nào nhanh cũng tốt?
1.Học nhanh có tốt hơn học chậm?
Nhà tuyển dụng ngày nay đề cao fast learners (những người có khả năng học nhanh). Thực chất học nhanh chưa chắc đã hiệu quả bằng học chậm.
Việc hình thành liên kết bền vững trong trí nhớ đòi hỏi quá trình tương tác qua lại liên tục giữa trí nhớ dài hạn và trí nhớ ngắn hạn (Atkinson & Shiffrin, 1977). Điều này đòi hỏi người học liên tục suy ngẫm, đối chiếu, liên kết kiến thức mới với những gì đã biết, cũng như thực hành chuyên sâu để áp dụng kiến thức với những dạng vấn đề khác nhau.
Như vậy, khả năng học nhanh mới chỉ dừng ở việc tiếp thu nhanh một kiến thức mới. Theo thời gian, kiến thức đó sẽ nhanh chóng bị lãng quên nếu không biết cách lưu trữ, kết nối, và thực hành hiệu quả. Do đó, thay vì đề cao việc học nhanh, chúng ta hãy đề cao việc học hiệu quả.
2.Cần nhanh chóng thể hiện giá trị bản thân trong công việc?
Khi mới đi làm, người trẻ vốn hay sốt sắng trong việc chứng minh năng lực. Nhiều người trong chúng ta có một nỗi sợ vô hình rằng nếu không chứng minh nhanh, mình sẽ làm sếp thất vọng, đồng nghiệp không coi trọng.
Sự thật có phải như vậy không?
Gần đây mình nhận được một lời khuyên rất giá trị từ một lãnh đạo ở Amazon:
“Với ba tháng đầu tiên trong công việc, chúng ta nên ưu tiên học hỏi và xây dựng niềm tin với đồng nghiệp, thay vì cố gắng chứng minh năng lực bản thân. Những ý tưởng, đề xuất trong giai đoạn này sẽ không có nhiều giá trị nếu thiếu đi sự hiểu biết sâu sắc về tổ chức, đội nhóm, và các dự án mình đang làm. Khi đã thực sự hiểu về công việc và xây dựng được mối quan hệ tốt với đồng nghiệp, các ý tưởng đổi mới, sáng tạo tự nhiên sẽ đến. Lúc đó, những sáng kiến mới thực sự có chiều sâu và mang lại nhiều giá trị.”
Tâm lý muốn chứng minh năng lực của người trẻ khi mới bắt đầu công việc là hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng nếu quá nôn nóng mang lại giá trị trong khi chưa thực sự hiểu sâu sắc về công việc, đội nhóm, và đối tác, những ý tưởng chúng ta có nhiều khi chỉ giải quyết được những dấu hiệu bề mặt.
Mỗi tổ chức, đội nhóm qua quá trình hình thành và phát triển đã xây dựng nên một kho tri thức của riêng mình. Những người mới vào nên ưu tiên việc học hỏi từ những kho tri thức có sẵn, làm theo những quy trình đang vận hành, tham khảo kinh nghiệm từ những người đã làm việc lâu năm ở tổ chức. Khi đã có đủ các mảnh ghép và hiểu sâu sắc về bộ máy, quy trình hiện có, những đóng góp, ý tưởng của chúng ta sẽ giá trị hơn nhiều.
Một khóa học kinh doanh được thiết kế theo dạng game Mario? Nghe thú vị và hấp dẫn nhỉ!
Tuần trước, mình có học một khóa online như vậy. Lúc mới bắt đầu, mình thực sự rất háo hức và tò mò. Nhưng đến khi học rồi thì chỉ mong nó nhanh nhanh kết thúc. Mình liên tục cảm thấy đau đầu do quá nhiều yếu tố gây xao nhãng trong lúc học. Phần kiến thức thực sự không đọng lại được nhiều. Học xong, trong đầu mình chỉ còn toàn hình ảnh nhân vật nhảy qua nhảy lại để ăn chuối, ăn cam và âm thanh tít tít của game 🥴.
I. Thử thách của learning designer khi thiết kế trải nghiệm học
Trí nhớ ngắn hạn của chúng ta chỉ có thể xử lý một lượng thông tin có hạn trong một thời gian ngắn. Đó là lý do vì sao các lý thuyết về khoa học nhận thức trong học đa phương tiện đều nhấn mạnh việc bỏ đi các yếu tố thừa, gây xao nhãng khỏi trải nghiệm học tập.